453

KHẢO SÁT THAY ĐỔI NHÃN ÁP TRƯỚC VÀ SAU PHẪU THUẬT PHACO TRÊN BỆNH NHÂN CÓ HỘI CHỨNG GIẢ TRÓC BAO

Nhằm mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm nhãn áp sau phẫu thuật Phaco trên bệnh nhân đục thủy tinh thể có hội chứng giả tróc bao và khảo sát mối liên quan với các yếu tố ảnh hưởng. Tác giả Nguyễn Chí Hưng, Phạm Thế Hoàng đã tiến hành khảo sát trên các bệnh nhân bị đục thủy tinh thể có kèm hội chứng giả tróc bao của Khoa Tổng Hợp, thuộc bệnh viện Mắt Thành Phố Hồ Chí Minh ( năm 2019).

Phương pháp: Thực nghiệm lâm sàng trên 31 mắt đục thủy tinh thể có hội chứng giả tróc bao được phẫu thuật Phaco. Các bệnh nhân glôcôm điều trị với thuốc hạ nhãn áp hoặc phẫu thuật cắt bè củng mạc không được chọn vào nghiên cứu. Nhãn áp được theo dõi trong thời gian 2 tháng.

Kết quả: Nhãn áp trung bình trước phẫu thuật là 16,9 ± 3,1 mmHg. Nhãn áp giảm 2,6 mmHg sau phẫu thuật 1 tuần; giảm 3,3 mmHg sau phẫu thuật 1 tháng và giảm 3,6 mmHg (21%) sau 2 tháng xuống 13,3 ± 1,4 mmHg (p<0,001). Nhãn áp trước phẫu thuật có mối liên quan có ý nghĩa với kết quả thay đổi nhãn áp sau phẫu thuật (B = -0,570; p < 0,001).

Sau phẫu thuật 2 tháng nhãn áp trung bình giảm 3,6 mmHg tương đương mức giảm 21% so với trước phẫu thuật. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trong nước và trên thế giới. Cụ thể, nghiên cứu tác giả Moghimi[5] năm 2017 cho kết quả nhãn áp giảm 3,3 mmHg tương đương mức giảm 18% sau 3 tháng, nghiên cứu Shingleton[10] cho kết quả nhãn áp giảm 2,9 mmHg. Sau phẫu thuật 1 ngày nhãn áp có xu hướng tăng, mức tăng là 1,5 mmHg so với trước phẫu thuật. Tác giả Levkovitch[4] nghiên cứu nhãn áp ngày đầu tiên sau phẫu thuật Phaco trên bệnh nhân giả tróc bao cho thấy kết quả tương đồng khi nhãn áp ngày đầu trung bình tăng 1,4 mmHg. Nguyên nhân tăng nhãn áp có thể do tình trạng viêm hậu phẫu cao; hội chứng giả tróc gây rối loạn hàng rào máu thủy dịch do đó làm tăng tỷ lệ viêm hậu phẫu. Trong nghiên cứu này tỷ lệ viêm là 100% trong ngày đầu tiên, các vật chất viêm có thể lắng đọng tại vùng bè gây cản trở thoát lưu thủy dịch và làm tăng nhãn áp.

            Kết quả phân tích cho thấy nhãn áp trước phẫu thuật là yếu tố có tương quan nghịch với thay đổi nhãn áp sau phẫu thuật. Trong nghiên cứu này, nhãn áp trước phẫu thuật cao thì mức giảm nhãn áp sau phẫu thuật lớn, nhãn áp trước phẫu thuật thấp thì nhãn áp sau phẫu thuật giảm ít.