32

BỆNH LÝ VÕNG MẠC TRẺ SINH NON

BỆNH LÝ VÕNG MẠC TRẺ SINH NON

      Bệnh lý võng mạc trẻ sinh non là tình trạng bệnh lý ở mắt có thể xảy ra ở trẻ non tháng (dưới 37 tuần). Võng mạc là cơ quan của mắt nằm ở phía sau nhãn cầu, tiếp nhận ánh sáng và truyền tín hiệu về bộ não giúp trẻ có thể nhìn thấy. Ở trẻ sinh non, sự phát triển bất thường mạch máu ở võng mạc có thể gây mù lòa cho trẻ từ rất sớm nếu trẻ có bệnh mà không được khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị kịp thời.

KHI NÀO TRẺ CẦN KHÁM VÀ TẤM SOÁT BỆNH LÝ VÕNG MẠC TRẺ SINH NON?

  • Tất cả những trẻ có tuổi thai khi sinh ≤ 33 tuần và cân nặng khi sinh ≤ 1800g.
  • Với những trẻ có tuổi thai khi sinh > 33 tuần, cân nặng khi sinh > 1800g, nhưng có thêm các yếu tố nguy cơ như suy hô hấp, viêm phổi, thở oxy kéo dài, thiếu máu, nhiễm trùng … cũng cần phải được khám mắt nếu có yêu cầu của bác sĩ sơ sinh (tiêu chuẩn này có thể thay đổi khi hồi sức sơ sinh được cải thiện tốt hơn)
  • Lần khám mắt đầu tiên cần được thực hiện khi trẻ được 3-4 tuần sau sinh, hoặc khi trẻ ≥ 31 tuần tuổi (dựa theo kinh chót) tùy thuộc vào mốc thời gian nào đến sau.

CHẨN ĐOÁN

      Việc thăm khám và tầm soát bệnh lý võng mạc trẻ sinh non cần được thực hiện bởi bác sĩ chuyên khoa Mắt tại bệnh viện Nhi Đồng (đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 2 tuổi) hoặc bệnh viện Mắt (trẻ lớn)

      Bệnh này không thể quan sát được bằng mắt thường mà phải được khám bằng đèn soi đáy mắt gián tiếp. Trước khi soi các bé sẽ được tra thuốc giãn đồng tử để bác sỹ có thể quan sát toàn bộ võng mạc và đánh giá kỹ trước khi kết luận.

PHÂN LOẠI MỨC ĐỘ

      Bệnh lý võng mạc trẻ sinh non là một bệnh thay đổi theo thời gian, bắt đầu với sự phát triển bất thường của mạch máu và có thể tiến triển, gây ra những biến chứng trầm trọng hơn.

      Dựa vào mức độ tiến triển của bệnh, người ta phân chia thành 5 giai đoạn có mức độ trầm trọng khác nhau.

– Giai đoạn 0: Mạch máu phát triển chưa hoàn toàn

      Kèm theo vùng vô mạch mà tại đó chưa có tổn thương của bệnh lí võng mạc trẻ sinh non.

– Giai đoạn 1: Đường giới hạn

      Đường ranh giới mỏng, dẹt, màu trắng, phân cách vùng võng mạc vô mạch (màu xám) phía trước và vùng võng mạc bình thường (màu cam) phía sau.

– Giai đoạn 2. Gờ sợi mạch

      Đường ranh giới nhìn thấy rõ và phát triển ra khỏi mặt phẳng võng mạc, trở nên có chiều rộng và chiều cao, tạo thành một gờ xơ màu trắng nếu ít mạch máu và màu hồng nếu có nhiều mạch máu

– Giai đoạn 3. Tăng sinh sợi mạch ngoài võng mạc

       Các tổ chức xơ mạch tiếp tục phát triển ra sau hoặc ra trước, theo hướng vuông góc với bình diện võng mạc vào dịch kính.

– Giai đoạn 4. Bong võng mạc khu trú

      Khi tổ chức xơ phát triển mạnh vào buồng dịch kính sẽ gây ra tình trạng co kéo võng mạc – dịch kính, dẫn đến bong võng mạc thứ phát do co kéo.

  • Giai đoạn 4A: Bong võng mạc một phần chưa lan đến hoàng điểm. Chức năng thị giác có thể chưa tổn hại nhiều.
  • Giai đoạn 4B: Bong võng mạc lan đến hoàng điểm. Chức năng thị giác giảm sút rõ rệt.

– Giai đoạn 5: Bong võng mạc toàn bộ

      Võng mạc bong hoàn toàn do sự co kéo của tổ chức xơ, có hình phễu.

      Đến giai đoạn này, tiên lượng thị lực gần như không phục hồi cho dù phục hồi được giải phẫu của võng mạc bằng phẫu thuật.

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ VÕNG MẠC TRẺ SINH NON

  • Phương pháp quang đông võng mạc: năng lượng laser được sử dụng nhằm tạo sẹo ngay giới hạn của vùng võng mạc vô mạch, giúp ngăn ngừa sự phát triển các mạch máu bất thường và biến chứng bong võng mạc. Phương pháp này thường là chỉ định đầu tay cho hầu hết các trường hợp, tỉ lệ thành công cao, hiệu quả lâu dài, tăng thời gian giữa các lần tái khám và theo dõi.
  • Phương pháp lạnh đông võng mạc có mục tiêu điều trị tương tự nhưng ngày nay ít được sử dụng.

 

 

  • Thuốc tiêm nội nhãn (anti-VEGF): là phương pháp mới được áp dụng, tác dụng nhanh sau khi tiêm, thuốc có tác dụng ức chế sự tăng sinh các mạch máu bất thường.

      Thuốc thường được tiêm trực tiếp vào mắt tại phòng mổ, thời gian thực hiện nhanh, thường không cần thực hiện gây mê sâu toàn thân.

      Phương pháp tiêm nội nhãn thường được chỉ định cho các trường hợp bệnh diễn tiến quá hung hãn, trẻ có tuổi thai và cân nặng quá thấp, trẻ có nguy cơ biến chứng toàn thân nặng nếu thực hiện gây mê để laser. Tuy nhiên hiệu quả của phương pháp tiêm anti-VEGF nội nhãn cần được đánh giá qua các nghiên cứu dài hơn, có thể cần tiêm lặp lại hoặc phối hợp laser để đạt hiệu quả lâu dài.

      Tiêu chuẩn ngưng điểu trị khi các mạch máu võng mạc đã hoàn toàn trưởng thành và phát triển ổn định, hoặc các mạch máu bất thường đã thoái triển hoàn toàn. Sau khi điều trị ổn định, các bé cần được tiếp tục thăm khám và theo dõi định kỳ để phát hiện kịp thời các biến chứng khác: tật khúc xạ, nhược thị, lé, bong võng mạc…

      Ngày nay, với sự phát triển của y học hiện đại nhiều trẻ sinh non với tuổi thai cân nặng thấp được cứu sống nên số lượng trẻ sinh non có nguy cơ bệnh lý võng mạc càng cao. Sàng lọc hiệu quả và điều trị sớm là một phương pháp làm giảm nguy cơ mù cho trẻ.

Khoa Mắt Nhi – Bệnh viện Mắt