217

Độ lọc cầu thận ước tính (eGFR)

Độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) là gì?

Bệnh thận còn diễn biến rất âm thầm, đến khi phát hiện thì tình trạng bệnh đã nguy kịch. Cách tốt nhất để đánh giá chức năng thận và phát hiện sớm các bệnh về thận là thực hiện đánh giá độ lọc cầu thận ước tính (eGFR).

1. Độ lọc cầu thận ước tính – eGFR là gì?

Độ lọc cầu thận GFR (Glomerular filtration rate) là đại lượng phản ảnh số lượng máu được lọc lọc bởi các quản cầu thận trong mỗi phút. Thông qua việc đo mức độ creatinin trong máu rồi tính toán một con số phản ánh về hoạt động hiện tại của thận, ta cũng được độ lọc cầu thận ước tính eGFR (estimated GFR). Khi chức năng thận của một người bị suy giảm do tổn thương hoặc bệnh thận, độ lọc cầu thận giảm thì các chất thải bị tích tụ trong cơ thể và tăng lên trong máu. Ngược lại độ lọc cầu thận càng cao thì thận làm việc càng tốt. Độ lọc thông thường của cầu thận là khoảng 90-100 ml/phút.

Chức năng quan trọng nhất của thận là lọc máu và các chất thải, chỉ giữ lại protein và các tế bào máu. Các chất thải được tiết ra, vào dịch lọc để hình thành nên nước tiểu. Ước tính mỗi ngày 2 thận khỏe mạnh sẽ lọc khoảng 200 lít máu và tạo ra 2 lít nước tiểu.

Đo độ lọc cầu thận trực tiếp được xem là chính xác nhất để phát hiện sự thay đổi của thận, nhưng đo lường GFR trực tiếp rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhân viên có kinh nghiệm, thường chỉ áp dụng tại các nơi nghiên cứu và trung tâm ghép tạng. Do vậy độ loc cầu thận ước tính (EGFR) được sử dụng thay thế.

Độ lọc cầu thận ước tính (EGFR) được tính toán dựa vào creatinine trong huyết thanh. Creatinine là chất thải của mô cơ được lọ ra khỏi máu do thận và được phóng thích vào nước tiểu ở tốc độ thường ổn định. Khi chức năng thận giảm, ít creatinin được bài tiết và nồng độ sẽ tăng trong máu. Cùng với đo creatinine máu, EGFR cũng được xây dựng.

Để đo độ lọc cầu thận ước tính eGFR ta có thể sử dụng một số phương trình dựa trên chỉ số Creatinin, Cystatin C một mình hoặc cả hai, kết hợp với thông tin về tuổi, giới tính, chủng tộc, chiều cao và cân nặng (trẻ em thêm chỉ số BUN – Lượng nitơ có trong ure) rồi từ đó sử dụng để đánh giá chức năng thận.

2. Vì sao cần xác định độ lọc cầu thận ước tính eGFR?

Về cơ bản, độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) được dùng để:

  • Sàng lọc và phát hiện tổn thương thận sớm, giúp chẩn đoán bệnh thận mãn tính.
  • Theo dõi tình trạng hiện tại của thận, đánh giá chức năng thận.

eGFR là giá trị cho biết mức độ thận lọc chất thải ra khỏi máu cũng như giúp xác định tình trạng tổn thương thận hiện có. eGFR cũng là phép đo chức năng thận tốt nhất, được sử dụng để đánh giá chức năng thận ở người lớn và trẻ em.

Xét nghiệm Creatinin máu, Cystatin C, cùng với độ lọc cầu thận ước tính eGFR cũng thường được sử dụng để chẩn đoán, theo dõi những người bị đái tháo đường, suy thận hoặc tăng huyết áp: những bệnh mạn tính có thể dẫn đến tổn thương thận.

Viêm cầu thận
Độ lọc cầu thận ước tính (eGFR) có tác dụng phát hiện các tổn thương của thận

3. Cách thức đọc kết quả eGFR

3.1. Chỉ số bình thường

Ở người trưởng thành có sức khỏe bình thường, độ lọc cầu thận ước tính là trên 90 mL/ phút/1,73m2.

Độ tuổi càng cao thì mức độ lọc cầu thận sẽ càng giảm dần, ngay cả đối với người không bị bệnh thận. Độ lọc cầu thận ước tính trung bình ở người bình thường dựa theo tuổi là:

  • Từ 20-29 tuổi: chỉ số eGFR trung bình là 116 mL/phút/1,73m2
  • Từ 30-39 tuổi: chỉ số eGFR trung bình là 107 mL/phút/1,73m2
  • Từ 40-49 tuổi: chỉ số eGFR trung bình là 99 mL/phút/1,73m2
  • Từ 50-59 tuổi: chỉ số eGFR trung bình là 93 mL/phút/1,73m2
  • Từ 60-69 tuổi: chỉ số eGFR trung bình là 85 mL/phút/1,73m2
  • Từ 70 tuổi trở lên: chỉ số eGFR trung bình là 75 mL/phút/1,73m2

3.2. Nếu eGFR trên 60

Nếu kết quả tổng kết trên 60 mL/phút/1,73m2 thì chức năng thận bình thường hoặc gần mức bình thường, có thể coi là ổn định. Tuy nhiên vẫn có thể có một số tổn thương thận hoặc nguy cơ mắc bệnh thận, lời khuyên tốt nhất là không nên chủ quan và cần tiếp tục theo dõi, nhất là nếu quý vị có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ cao.

Khi eGFR trên 60 mL/phút/1,73m2, bệnh nhân vẫn có thể được chẩn đoán mắc bệnh thận mãn tính (CKD) nếu có các dấu hiệu hư tổn thận và những dấu hiệu này đã kéo dài hơn 3 tháng. Ngược lại nếu không có dấu hiệu hư tổn thận, có thể tiếp tục theo dõi chức năng thận đồng thời lựa chọn và duy trì lối sống lành mạnh.

3.3. Nếu eGFR dưới 60

Nếu giá trị thu được dưới 60 mL/phút/1,73m2, đây là dấu hiệu cho thấy có đôi chút vấn đề ở chức năng thận. Để xác nhận lại điều này, bác sĩ có thể sẽ yêu cầu thực hiện lại xét nghiệm máu. Việc theo dõi các thay đổi đối với eGFR giúp bác sĩ biết tình trạng bệnh đang tiến triển nhanh hay chậm đến mức nào.

Để có thể chẩn đoán mắc bệnh thận mạn tính sẽ cần dựa trên kết quả GFR, nếu liên tục dưới 60 mL/phút/1,73m2 trong khoảng thời gian hơn ba tháng hoặc đi kèm một số dấu hiệu khác về tổn thương thận (như albumin niệu, huyết niệu hoặc kết quả siêu âm hoặc sinh thiết thận bất thường) thì khả năng rất cao bệnh nhân đã tiến triển đến bệnh thận mãn tính.

4. Bệnh thận mãn tính

Bệnh thận mạn tính (tiếng Anh là “Chronic kidney disease” – CKD) có liên quan mật thiết với sự suy giảm nặng chức năng thận. CKD có thể được nhận diện trong một số bệnh phổ biến như đái tháo đường và tăng huyết áp. Việc chẩn đoán và phát hiện sớm các rối loạn chức năng thận có thể làm giảm tổn thương thận ở mức thấp nhất. Điều này rất quan trọng vì các triệu chứng của bệnh thận thường không được phát hiện cho đến khi 30-40% chức năng thận bị mất.

Tùy thuộc vào độ lọc cầu thận ước tính eGFR, người ta còn phân loại chức năng thận thành 5 giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: eGFR ≥ 90 mL/phút/1,73m2 => Chức năng thận bình thường hoặc mới tổn thương thận ở mức tối thiểu. Nhưng nếu có thêm bất thường về nước tiểu, về cấu trúc hoặc về di truyền vẫn có thể dẫn đến bệnh thận.
  • Giai đoạn 2: eGFR nằm trong khoảng 60-89 mL/phút/1,73m2 => Chức năng thận có dấu hiệu giảm nhẹ và nếu đi kèm các bất thường khác thì vẫn có thể dẫn đến bệnh thận.

Nếu chức năng thận của người bệnh mới dừng ở giai đoạn 1 hoặc 2, bệnh nhân sẽ chỉ mắc CKD nếu mắc albumin niệu, chứng huyết niệu, thấy bệnh lý bất thường hoặc cấu trúc bất thường.

  • Giai đoạn 3a: eGFR nằm trong khoảng 45-59 mL/phút/1,73m2
  • Giai đoạn 3b: eGFR nằm trong khoảng 30-44 mL/phút/1,73m2 => Chức năng thận bị suy giảm ở mức độ trung bình.
  • Giai đoạn 4: eGFR nằm trong khoảng 15-29 mL/phút/1,73m2 => Chức năng thận đang bị suy giảm ở mức độ nặng.
  • Giai đoạn 5: eGFR nằm trong khoảng <15 mL/phút/1,73m2 hoặc bắt đầu thẩm tách => Đã bị suy thận rất nặng hoặc suy thận giai đoạn cuối.

Độ lọc cầu thận ước tính eGFR và kết quả albumin niệu được kết hợp để đánh giá hoạt động của thận. Bác sĩ sẽ sử dụng những thông tin này để chỉ định phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.

Phương pháp điều trị cũng được quyết định dựa trên nguyên nhân gây tổn thương thận. Điều trị bệnh tiểu đường và kiểm soát chứng huyết áp cao có thể giúp làm chậm tiến trình hoặc tránh làm tổn thương thận nặng hơn, đồng thời làm giảm nguy cơ mắc các vấn đề khác như đau tim và đột quỵ.

5. Các vấn đề cần lưu ý

Độ lọc cầu thận ước tính eGFR của một người sẽ giảm dần theo tuổi tác, theo một số bệnh và có xu hướng tăng trong thai kỳ.

Độ lọc cầu thận ước tính cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều loại thuốc, ví dụ như kháng sinh GentamicinCefoxitin và thuốc điều trị ung thư Cisplatin có thể làm tăng nồng độ Creatinin huyết thanh từ đó làm sai lệch kết quả eGFR.

Trong thực tế lâm sàng, bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính có thể sử dụng một số thuốc gây ảnh hưởng đến chức năng thận. Những loại thuốc này cần được điều chỉnh liều dùng, tránh sử dụng hoặc thay thế. Có thể kể đến một số thuốc hạ cholesterol máu (statin – thuốc ức chế men khử HMG-CoA), thuốc giảm đau không steroid (NSAIDs), thuốc chống nấm, thuốc chống đái tháo đường, kháng sinh, kháng virus, thuốc gây rối loạn dạ dày hoặc chống bài tiết acid ở dạ dày.

nguồn: internet