713

TỔNG QUAN VỀ GLAUCOMA

  1. Định nghĩa

Glaucoma là một nhóm bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tổn thương cấu trúc đầu thần kinh thị và lớp sợi thần kinh võng mạc, gây mất thị trường tương xứng với các tổn thương tế bào hạch và sợi trục. Tổn thương do glaucoma được gây ra không chỉ đơn thuần bởi nhãn áp mà còn do nhiều yếu tố bệnh sinh khác liên quan đến thần kinh thị. Do đó, trên một số bệnh nhân, những tổ thương tiến triển vẫn có thể xảy ra với mức nhãn áp thấp trong khi trên những bệnh nhân khác, dù nhãn áp có cao hơn nhưng tổn thương vẫn chưa xảy ra.

  1. Dịch tễ glaucoma

Theo thống kê của tổ chức Y tế Thế giới (WHO), glaucoma là nguyên nhân gây mù thứ hai trên thế giới, chiếm tỷ lệ 8%, và là nguyên nhân gây mù loà không hồi phục hàng đầu trên toàn thế giới. Kết quả từ nghiên cứu của Quigley và cộng sự nêu rõ, năm 2020 trên thế giới sẽ có 79,6 triệu người bị glaucoma, trong đó tỷ lệ người bị glaucoma góc mở (OAG) là 74%. Cũng theo nghiên cứu này, số bệnh nhân glaucoma người Châu Á chiếm 47% thế giới, trong đó số người bị mù cả hai mắt do OAG được dự đoán là 5,3 triệu người vào năm 2020. Bệnh nhân gốc Á chiếm hơn phân nửa số lượng bệnh nhân POAG trên toàn thế giới.

Tại Việt Nam, theo điều tra dịch tễ tại 16 tỉnh thành về tình hình mù lòa có thể phòng tránh được của Viện Mắt trung ương và tổ chức Atlantic Philanthropies năm 2007, có 24.800 người bị mù cả hai mắt do glaucoma (nguyên nhân thứ hai sau đục thủy tinh thể). Bệnh glaucoma, nhất là glaucoma góc mở với tiến triển bệnh từ từ, không triệu chứng, nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ góp phần giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ mù lòa nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.

  1. Các yếu tố nguy cơ

Nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến glaucoma đã được đưa ra từ các nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng quan trọng. Chúng bao gồm tăng nhãn áp, tuổi già, giảm áp lực tưới máu, tiền sử gia đình, giác mạc mỏng và chủng tộc. Vai trò của giới tính và các yếu tố toàn thân (tiểu đường, cao huyết áp, bệnh lý mạch máu) đối với sự tiến triển của glaucoma vẫn còn gặp nhiều tranh cãi và hiện các kết quả còn chưa nhất quán.

4. Phân loại glaucoma 

Glaucoma được phân loại thành glaucoma góc mở hoặc glaucoma góc đóng và glaucoma nguyên phát hoặc glaucoma thứ phát. Việc phân biệt góc đóng hay góc mở là điều rất quan trọng khi đứng trên quan điểm điều trị và được xác định nhờ kỹ thuật soi góc tiền phòng. Khái niệm nguyên phát và thứ phát cũng có vai trò nhất định trong việc tìm kiếm cơ chế dẫn đến các tổn thương do glaucoma. Bên cạnh đó, còn có những cách tiếp cận khác trong phân loại glaucoma như theo cấu trúc giải phẫu, theo kết quả soi góc tiền phòng, theo phân tử, theo gen… và mỗi cách phân loại đều có những ưu điểm khác nhau.

Khi các kiến thức về cơ chế gây ra glaucoma ngày càng được hiểu rõ, nhiều cách phân loại khác được đưa ra thêm, tuy nhiên, cách phân loại dựa trên nguyên nhân và cơ chế gây nghẽn dòng thoát lưu thủy dịch là hai cách được phổ biến rộng rãi nhất.

 Ngoài ra, còn có thể glaucoma do cơ chế hỗn hợp: với dạng này, bệnh nhân thường được điều trị tình trạng góc hẹp thành công nhưng vẫn có tình trạng giảm dòng thoát lưu thủy dịch và tăng nhãn áp, không kèm dính góc. Một dạng khác ít gặp hơn là glaucoma góc đóng thứ phát do những nguyên nhân khác trên bệnh nhân vốn đã có glaucoma góc mở. Lúc này, nhãn áp tăng có thể kháng trở tại vùng bè gây giảm thoát lưu thủy dịch trong glaucoma góc mở hoặc tình trạng nghẽn góc trực tiếp tại vùng bè do dính góc trong glaucoma góc đóng.

5. Điều trị

Mục tiêu của điều trị glaucoma là duy trì chức năng thị giác bằng cách ngăn ngừa sự tổn hại thêm của lớp sợi thần kinh và thị trường nhằm bảo toàn chất lượng cuộc sống của người bệnh. Các thử nghiệm lâm sàng uy tín như OHTS, EMGT, CIGTS, CNTGS, AGIS đều kết luận phương thức can thiệp có hiệu quả duy nhất hiện nay chính là hạ nhãn áp. Hạ nhãn áp có hiệu quả ngăn ngừa tổn thương thị trường tiến triển thêm với bất kỳ loại glaucoma nào, và bất kỳ giai đoạn nào của bệnh. Điều trị có thể lựa chọn từ thuốc, laser hoặc can thiệp phẫu thuật. Đối với glaucoma góc mở, lựa chọn đầu tay thường là thuốc nhỏ tại chỗ, bắt đầu với đơn trị liệu và tiến dần sang phối hợp thuốc hoặc phẫu thuật.